Friday, April 19, 2013

Hình ảnh các loại súng mà quân đội VN đã, đang và sắp sử dụng 1


Súng lục Tokarev TT-33

Thông số kĩ thuật:
Loại: Súng ngắn (pistol)
Nước sản xuất:Nga
Chiều dài tổng thể: 116mm
Trọng lượng: 910g
Loại đạn: 7.63mm
Hộp tiếp đạn:8 viên 


Chi tiết:
Tokarev TT là súng lục đã được phát triển như là kết quả của những cuộc thử nghiệm liên tục được tổ chức bởi Hồng quân giữa và cuối những năm 1920. Hồng quân cần một súng lục mới bán tự động hiện đại để thay thế khẩu Nagant M1895 đã quá cũ.Một trong những khẩu súng lục phổ biến nhất mua ở nước ngoài thập niên 1920 là Mauser C96 nổi tiếng và Hồng quân thực sự thích chuẩn mực đạn 7.63mm mạnh mẽ của mình và chọn cho tương lai của mình một khẩu súng lục thiết kế trong nước. Hồng quân lựa chọn và kiểm tra một số súng ngắn của các nhà thiết kế khác nhau và vào năm 1930 cuối cùng đã chọn được những thiết kế của nhà thiết kế vũ khí nổi tiếng của Nga, Fedor Tokarev.Trong thời gian 1930 - 1932 Hồng quân mua hàng nghìn khẩu súng lục mới để tìm hiểu cách tiết kế và cải tiến nó thành súng của mình.Kết quả là vào năm 1933 súng lục Tokarev đã được hoàn thành và tiến hành sản xuất năm 1934. Súng ngắn này đã được sản xuất với số lượng tăng lên trước WWII. Trước ngày 22 tháng 7 năm 1941, khoảng 600 000 khẩu TT-33 đã được chuyển giao cho Hồng quân. Súng ngắn trong thời gian chiến tranh đã được thực hiện với số lượng ngày càng tăng. Năm 1946 TT đã được chỉnh sửa để cắt giảm chi phí sản xuất, và sản xuất TT-33 ở Liên Xô cuối cùng đã chấm dứt vào khoảng năm 1952, với việc chuyển sang sử dụng súng ngắn 9mm Makarov PM hiện đại hơn. Tuy nhiên, TT-33 phục vụ trong quân đội Xô viết cũng cho đến thập niên 1960 và phục vụ cho Quân đội của Liên Xô và cảnh sát - cho đến năm 1970. Trong thời gian cuối những năm 1940 và 1950 Liên Xô cũng cung cấp cho một số đồng minh mới giấy phép sản xuất TT-33 và nó được sản xuất tại Trung Quốc, Hungary, Bắc Triều Tiên, Ba Lan, Rumani và Nam Tư. Hầu hết súng ngắn TT-33 phi quân sự của Liên Xô sản xuất cũng được sử dụng đạn 7.62mm, với một số phiên bản xuất khẩu thương mại dùng đạn 9x19mm Luger. Súng được Liên Xô cấp cho bộ đội VN trong chiến tranh chống đế quốc.

Súng lục Makarov PM

Thông số kỹ thuật:
Loại: Súng ngắn bán tự động.
Nước sản xuất: Liên Xô.
Trọng lượng: 730 g (26 oz)
Chiều dài: 161.5 mm (6.34 in)
Cỡ nòng: 93.5 mm (3.83 in)
Đạn 9x18mm Makarov
Cơ cấu hoạt động: Trích khí phản lực
Sơ tốc: 315 m/s
Tầm bắn hiệu quả :50 m (54.7 yard)
Cơ cấu nạp: Hộp đạn 8 viên.


Chi tiết:

Súng ngắn Makarov hay còn được gọi là PM (Pistolet Makarova, tiếng Nga: Пистолет Макарова) ở phương Tây , K-59 ở Trung Quốc hay Việt Nam là một loại súng ngắn bán tự động do Nikolay Makarov thiết kế vào cuối thập niên 1940, sử dụng loại đạn 9×18mm Makarov. Makarov có uy lực vừa phải , tốc độ bắn nhanh , nhỏ gọn , dễ sử dụng.
Đây là súng ngắn tiêu chuẩn của quân đội Liên Xô trong thời kỳ 1951-1991 và còn là súng ngắn tiêu chuẩn của nhiều quân đội các nước xã hội chủ nghĩa cũ . Nó được sản xuất tại Liên Xô, Bulgaria, Đông Đức và Trung Quốc. Súng được sử dụng nhiều trong Chiến tranh Việt Nam. Hiện nay, nó được bán và sử dụng nhiều tại Hoa Kỳ.



Súng lục M-1911

Thông số kỹ thuật:
Loại: Súng ngắn.
Quốc gia chế tạo: Hoa Kỳ.
Trọng lượng: 2.44 lb (1,105 g) với băng đạn rỗng.
Chiều dài: 8.25 in (210 mm)
Cỡ nòng: 5.03 in (127 mm)
Đạn: .45 ACP
Cơ cấu hoạt động: Bệ lùi ngắn
Sơ tốc: 830 ft/s
Cơ cấu nạp: 7 viên trên băng tiếp đạn + 1 viên trong nòng.


Chi tiết:
Súng ngắn bán tự động M1911 do John Browning thiết kế, sử dụng loại đạn 45 ACP, là súng tiêu chuẩn của quân đội Hoa Kỳ từ năm 1911 đến năm 1985 và hiện này vẫn là một loại vũ khí quân dụng của Hoa Kỳ. Súng này được sử dụng rộng rãi trong Thế chiến thứ nhất, Thế chiến thứ hai, Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam. 
Đã có khoảng 2,7 triệu khẩu (gồm cả loại M1911A1) được sản xuất và có rất nhiều phiên bản khác nhau. Phiên bản mới nhất là khẩu MEU 1911 SOCOM dùng bởi Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Súng còn được bán ra cho thường dân, và được tạo cho hơn mười kiểu đạn khác nhau. Băng 8 viên được phổ biến rộng rãi trong cả quân đội lẫn súng dân dụng.



M-16

Thông số kỹ thuật:
Loại: Súng trường tấn công
Nước chế tạo: Hoa Kỳ
rọng lượng 3-4 kg
Chiều dài: 1006 mm
Cỡ nòng: 20 in (508 mm)
Đạn: 5.56x45mm NATO
Cơ cấu hoạt động:Gas-operated, rotating bolt.
Tốc độ bắn: 700–950 rounds/min, cyclic depending on model
Sơ tốc: 3200 ft/s (M16A1), 3050 ft/s (M16A2)
Tầm bắn hiệu quả: 550 m
Cơ cấu nạp: Various STANAG Magazines.

Chi tiết:
M16 là tên của một loạt súng trường do hãng Colt cải tiến từ súng ArmaLite AR-15. Đây là loại súng tác chiến bắn đạn 5.56x45mm. M16 là súng thông dụng của quân đội Hoa Kỳ từ năm 1967, và của quân đội các nước thuộc khối NATO, và có số lượng sản xuất cao nhất trong các loại súng cùng cỡ.
M16 nhẹ (3-4kg), các phần làm bằng sắt, nhôm và nhựa cứng, sử dụng kỹ thuật giảm nhiệt bằng hơi, tác động lên cò bằng khí ép, đạn nạp từ băng tiếp đạn với cơ cấu khóa nòng xoay.
Có ba loạt khác nhau trong qua trình sản xuất súng M16. Loạt đầu tiên: M16 và M16A1, sử dụng trong thập niên 1960, bắn đạn M193/M196, có thể hoàn toàn tự động hay bán tự động. Loạt kế là M16A2, thập niên 1980, bắn đạn M855/M856 (do Bỉ sáng chế sử dụng cho trung liên FN Minimi), có khả năng bắn từng viên hay bắn từng loạt 3 viên. Loạt sau cùng là M16A4, súng tiêu chuẩn của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trong chiến tranh Iraq. M16A4 và súng trường M4 Carbine dần dần được dùng thay thế M16A2. M16A4 có quai xách có thể dùng để gắn kính nhắm, dụng cụ chấm mục tiêu bằng tia laser, kính nhìn ban đêm, đèn pha và thậm chí cả súng phóng lựu.



CAR-15

Thông số kỹ thuật:
Loại: Súng trường dã chiến.
Nước chế tạo: Hoa Kỳ
Trọng lượng : Chưa nạp đan: 5.2 lb. (2.36 kg)
Nạp đạn: 6.22 lb. (2.82 kg)
Độ dài: 28.3 in. (719 mm)
Độ dài nòng: 10 in. (254 mm)
Loại đạn: 5.56x45mm NATO
Cơ chế hoạt động: Va chạm trực tiếp
Tốc độ bắn: Từ 700 đến 900 viên / phút.

Chi tiết:
Súng trường tự động Colt-15 và CAR-15 là 2 loại súng của dòng AR-15 và súng trường M16 ( Colt Commando). CAR-15 được sử dụng rộng rãi trong cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970. Do kích thước nhỏ gọn của mình, hai nòng ngắn Colt Commando và XM177 khiến CAR-15 có 1 lợi thế nhất định khi tác chiến và tiếp tục được cấp cho quân đội Mỹ sau chiến tranh Việt Nam.
CAR-15 đc sản xuất lại từ súng AR-15. CAR-15 sau đó vẫn tiếp tục cải tiến, sử dụng thương hiệu M16 cho các mô hình quân sự theo định hướng và thương hiệu Colt AR-15 cho thực thi pháp luật và các mô hình dân sự. Tuy nhiên, trong cách sử dụng hiện tại, CAR-15 được sử dụng như một tên chung cho loại súng dài hơn đó là M16 và AR-15 biến thể.
Cụ thể, CAR-15 là loại súng trường dòng "Colt Commando" dài 11,5-inch theo kiểu Model 733 series. TRong dòng này, M4 Carbine dài 14,5-inch, còn M16 là 20 inch.

M1 Garand
Thông số kỹ thuật:
Loại: Súng trường bán tự động.
Nước chế tạo: Hoa Kỳ.
Trọng lượng: 9.5 lb (4.31 kg) to 11.6 lb (5.3 kg)
Độ dài: 43.5 in (1,104.9 mm)
Độ dài nòng: 24 in (609.6 mm)
Loại đạn: * .30-06 Springfield (7.62x63mm)
* 7.62x51mm NATO (.308 Winchester) ( Đc sử dụng bởi Hải Quân Hoa Kỳ...)
Cơ chế hoạt động: Gas-operated, rotating bolt
Gia tốc đạn: 2,800 ft/s (853 m/s)
Cư li bắn: 440 yd (402 m)


Chi tiết
M1 Garand(súng trường chuyên dụng Hoa Kỳ, cỡ nòng 0,30 in ) là loại súng trường bán tự động đầu tiên của dòng súng trường được thường cấp cho bộ binh của một số quốc gia. M1 Garand chính thức thay thế M1903 Springfield ( súng trường dịch vụ tiêu chuẩn của quân đội Hoa Kỳ vào năm 1936) và sau đó đã được thay thế bằng M14 năm 1957 . Tuy nhiên, M1 tiếp tục được sử dụng với số lượng lớn cho đến năm 1963 và ở một mức độ ít hơn cho đến năm 1966.
M1 Garand đã được sử dụng rất nhiều bởi binh lính Mỹ trong Thế Chiến II, Chiến tranh Triều Tiên, và một số ít ở chiến tranh Việt Nam. Hầu hết súng trường M1 được trang bị cho Hải quân và Thủy quân lục chiến, mặc dù nhiều ngàn khẩu cũng được Mỹ cho các nước vay hoặc viện trợ cho các đồng minh của Mỹ.
M1 Garand vẫn còn được sử dụng trong quân đội nhiều nước. Nó cũng được người dân sử dụng như súng săn, súng trường bắn tỉa. Tên gọi "Garand" được phát âm khác nhau như / ɡərænd / hoặc / ɡærənd /. Theo các chuyên gia và những người quen biết nhà thiết kế vũ khí John Garand.

SKS ( CKC )
Thông số kỹ thuật:
Loại: Súng trường nạp đạn tự động.
Nước chế tạo: Liên Xô.
Chiều dài súng: 1,21 m
Chiều dài nòng: 0,521 m
Trọng lượng: 3,85 kg
Cỡ đạn: 7,62x39 mm
Tốc độ đạn ra khỏi nòng: 735 m/s
Hệ thống nạp đạn: nạp đạn từng viên
Tầm bắn hiệu quả: 200 đến 400m
Tầm hoạt động tối đa (lý thuyết): 1.000m (1km)

Chi tiết:
CKC (viết tắt của "Самозарядный карабин системы Симонова" trong tiếng Nga, nghĩa là Súng trường nạp đạn tự động cơ cấu Simonov) là loại súng trường bắn đạn cỡ 7,62x39 mm (chung cỡ đạn với súng AK-47 và RPD). CKC được Sergei Gavrilovich Simonov (1894 - 1986), người Liên Xô, thiết kế ra và từng được sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam. Hiện nay, súng CKC vẫn được sử dụng trong quân đội nhiều nước.
CKC là loại súng lên đạn tự động sử dụng nguyên tắc trích khí từ phát bắn trước nên được gọi là súng trường tự động (gần giống với súng Grand M1 của Hoa Kỳ). Khi xạ thủ bắn phát đầu tiên, viên đạn đi qua nòng súng kèm khí đẩy của thuốc phóng, sẽ có một bộ phận trích khí sử dụng khí thuốc đẩy lùi bệ khóa nòng giúp đưa viên đạn thứ 2 lên nòng và thực hiện phát bắn tiếp theo.
Súng CKC khá dễ sử dụng. Hộp tiếp đạn của có 10 viên đạn loại 7,62 mm. Hệ thống nạp đạn của CKC thuộc dạng nạp đạn từng viên. Với súng CKC mẫu mới thì có hộp tiếp đạn tách rời giống với hộp tiếp đạn của AK-47. Viên đạn được bắn đi triệt để nên đạn đạo chính xác hơn so với AK47, cho phép tiêu diệt mục tiêu hiệu quả với tầm bắn từ 100-1000 m.
CKC có thể được gắn lưỡi lê để đánh giáp lá cà. Súng bắn được trong mọi điều kiện khắc nghiệt của môi trường (lạnh giá, sa mạc, dưới nước, ...). Súng cũng có thể trang bị ống nhắm quang học tăng tầm hoạt động và độ chính xác của súng
Nhược điểm của CKC là việc dùng băng đạn hộp dẫn đến hạn chế số lượng đạn mang theo và thời điểm nạp đạn rất lâu do nhét từng viên vào. Thêm vào đó, súng dài và nặng gây cản trở trong lúc hành quân , gây nhiều bất tiện.
Năm 1956, Trung Quốc bắt đầu sản xuất loại súng K56 dựa theo mẫu CKC.

Type-56
Thông số kỹ thuật:
Loại: Súng trường tự động.
Nước chế tạo: Tàu Khựa.
Trọng lượng: Type 56: 3.8 kg (8.38 lb)
Type 56-1: 3.70 kg (8.16 lb)
Type 56-2: 3.94 kg (8.69 lb)
Độ dài súng: Type 56: 874 mm (34.4 in)
Type 56-1/56-2: 874 mm (34.4 in) w/ stock extended, 654 mm (25.7 in) w/ stock folded.
Độ dài nòng: 414 mm (16.3 in)
Loại đạn: 7.62x39mm M43
Cơ chế hoạt động: Gas-operated, rotating bolt
Gia tốc: 600-650 viên/giây
Tốc độ đạn: 735 m/s (2,411 ft/s)
Tầm ảnh hưởng: 100–800m
Số đạn/băng: 30 viên

Chi tiết:
Type 56 là súng trường tấn công được sử dụng rộng rãi bởi quân đội Trung Quốc từ cuối thập niên 1950 cho đến những năm 1980 khi nó được thay thế bằng súng trường tấn công Type 81 mới hơn trong các đơn vị tiền tuyến. Theo tư liệu của Trung Quốc, dân quân và các đơn vị Cảnh sát vũ trang nhân dân cũng như an ninh biên giới và hải quân vẫn còn sử dụng súng trường Type-56 và Type-56 SKS carbine . Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Type 56 được xuất khẩu sang các lực lượng Cộng sản trong thế giới thứ ba. Type-56 được đưa đến chiến trường ở châu Phi, Đông Nam Á, và Trung Đông trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh và đã được sử dụng cùng với súng trường Kalashnikov của Liên Xô và Khối hiệp ước Warsaw quốc gia Đông Âu.

PPSh-41
Thông số kỹ thuật:
Loại: Súng tiểu liên.
Nước chế tạo: Liên Xô.
Trọng lượng: 3.63 kg (8 lb)(với magazine).
Độ dài súng: 843 mm (33.2 in)
Độ dài nòng: 269 mm (10.6 in)
Loại đạn: 7.62x25mm Tokarev
Cơ chế hoạt động: Blowback, open bolt
Gia tốc đạn: 900 viên\giây.
Tốc độ đạn: 488 m/s (1,600.6 ft/s)
Tầm ảnh hưởng: 200 m
Số đạn: 35 viên\ box magazine hoặc 71 viên\ drum magazine.

Chi tiết
PPSh-41 (Pistolet-Pulemyot Shpagina kiểu 41) là loại súng tiểu liên của quân đội Liên Xô thiết kế và sản xuất trong thế chiến thứ hai và vài năm sau đó . Nó được thiết kế bởi Georgi Shpagin như là một phiên bản rẻ tiền và dễ sản xuất của khẩu PPD-40, vốn tốn rất nhiều chi phí và thời gian sản xuất. Khẩu PPSh-41 với thiết kế nạp đạn tự động theo kiểu trích khí phản lực và hộp đạn lớn, sử dụng kiểu đạn 7.62x25mm đã trở thành loại súng tiểu liên tiêu chuẩn của quân đội Xô Viết khi đó.
Trong chiến đấu, PPSh-41 đươc coi là loại súng khá lợi hại với tốc độ bắn 900 viên/phút. Tuy nhiên điểm yếu của nó là thiết kế băng đạn hình trống cồng kềnh, và đặc biệt là dễ bị kẹt đạn khi bắn. Sau này,quân đội Liên Xô đã nghiên cứu và phát triển nhiều loại súng tiểu liên khác, nhưng PPSh-41 vẫn còn được sử dụng rộng rãi cả trong và ngoài nước.

PPS-43
Thông số kỹ thuật:
Loại: Tiểu liên
Nước chế tạo: Liên Xô
Trọng lượng: 3.04 kg (6.7 lb)
Độ dài súng: 820 mm (32.3 in)
Độ dài nòng: 243 mm (9.6 in)
Loại đạn: Tokarev 7.62x25mm
Cơ chế hoạt động: Blowback, open bolt.
Gia tốc: 100- 600 viên/phút
Tốc độ đạn: Xấp xỉ 500 m/s (1,640 ft/s)
Tầm ảnh hưởng: 100 m
Tầm ảnh hưởng tối đa: 200 m
Số đạn: 35v/băng.

Chi tiết
PPS-43 (tiếng Nga là: ППС - "Пистолет-пулемёт Судаева" hoặc "Pistolet-pulemjot Sudaeva", tiếng Anh: "Sudaev's submachine-gun") là một loại súng thuộc họ của súng tiểu liên Xô Viết sử dụng đạn Tokarev 7.62x25mm, được phát triển bởi Alexei Sudayev với một mức chi phí thấp để phục vụ cho việc phòng thủ của các đơn vị trinh sát, đội xe và nhân viên phục vụ, nhân viên hỗ trợ trong chiến tranh.
Các biến thể của PPS được sử dụng rộng rãi bởi lưc lượng Hồng quân trong Thế chiến II và sau đó đã được sử dụng rộng rãi bởi các lực lượng vũ trang của một số quốc gia ở Khối hiệp ước Warsaw cũ, cũng như rất nhiều nước đồng minh từ Châu Phi và Châu Á, trong đó có Việt Nam.





0 nhận xét:

Post a Comment